Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Học 11. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn Học 11. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012

Nghị luận "Truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc"

Tục ngữ là một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian, được xem là túi khôn của nhân loại,bởi vì đó là những bài học trí tuệ sâu sắc của người xưa được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn.Chúng ta có thể tìm thấy ở đấy những kinh nghiệm sống trong thực tế và những bài học về luân lý đạo đức.Ngay từ xa xưa,cha ông ta vẫn thường nhắc nhở thế hệ đi sau phải có tình cảm trân trọng biết ơn đối với những người đã tạo dựng thành quả cho mình.Lời khuyên nhủ ấy được gởi gắm trong câu tục ngữ giàu hình ảnh:
“ Uống nước nhớ nguồn ”
Chúng ta có suy nghĩ như thế nào khi đọc lời khuyên dạy của tiền nhân ?
“Nguồn” là nơi xuất phát của dòng nước,mạch nước từ núi,từ rừng ra suối,ra sông rồi đổ ra biển cả mênh mông,không bao giờ cạn.Thứ nước khởi thủy đó trong mát,tinh khiết nhất.Khi ta uống dòng nước làm vơi đi cơn khát thì phải biết suy ngẫm đến nơi phát xuất dòng nước ấy.Từ hình ảnh cụ thể như vậy,người xưa còn muốn đề cập đến một vấn đề khái quát hơn.”Nguồn” có thể được hiểu chính là những người đã tạo ra thành quả về vật chất,tinh thần cho xã hội.Còn “uống nước” đó chính là sử dụng,đón nhận thành quả ấy.Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn những người đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống.



Thật vậy,trong cuộc sống,không có hiện tượng nào là không có nguồn gốc,không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên,tất cả mọi thành quả đều phần lớn do công sức lao động của con người làm ra.Ta không thể tự tạo mọi thứ từ đôi tay,khối óc của mình cho nên ta phải nghĩ đến những ai đã tạo ra nó.Mặt khác,người tạo ra thành quả phải đổ mồ hôi công sức,thậm chí phải chịu phần mất mát hy sinh.Trong khi đó người thụ hưởng thì không bỏ ra công sức nào cả,vì lẽ đó chúng ta phải biết ơn họ.Đó là sự công bằng trong xã hội.

Hơn nữa,lòng biết ơn sẽ giúp ta gắn bó với cha anh,với tập thể,tạo ra một xả hội thân ái kết đoàn.Cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao nếu truyền thống ấy được lưu giữ và xem trọng.Con người sống ân nghĩa sẽ được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh.

Ngược lại,thiếu tình cảm biết ơn,sống phụ nghĩa quên công,con người trở nên ích kỉ,vô trách nhiệm,những kẻ ấy sẽ bị người đời chê trách,mỉa mai,bị gạt ra ngoài lề xã hội và lương tâm của chính họ sẽ kết tội.

Bên cạnh đó,ta thấy “Uống nước nhớ nguồn” còn là đạo lí của dân tộc,là lẽ sống tốt đẹp từ bao đời nay cho nên thế hệ đi sau cần kế thừa và phát huy.Bài học đạo đức làm người ấy cứ trở đi trở lại trong kho tàng văn học dân gian: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ người đào giếng”, “Đường mòn ân nghĩa chảng mòn”, “Ai mà phụ nghĩa quên công,thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”…

Thật đáng chê trách cho những ai còn đi ngược lại với lẽ sống cao thượng ấy.Sống dưới mái ấm gia đình,có những người con vẫn chưa cảm nhận hết công sức của đấng sinh thành,họ thản nhiên tiêu xài hoang phí những đồng tiền phải đánh đổi bằng những giọt mồ hôi,nước mắt của cha mẹ,thậm chí còn có kẻ đã ngược đãi với cả những người đã tạo dựng ra mình.Dưới mái học đường,nhiều học sinh vẫn còn xao lãng với chuyện học hành.Đó là gì,nếu không phải là vô ơn với thầy cô?Trong xã hội cũng không ít kẻ “uống nước” nhưng đã quên mất “nguồn”.

Câu tục ngữ là lời khuyên nhủ chân tình:con người sống phải có đạo đức nhân nghĩa,thủy chung,vừa là lời ca ngợi truyền thống đạo lí lâu đời của dân tộc Việt.Nó còn là hồi chuông cảnh tỉnh đối với ai đã đối xữ một cách vô ơn,bạc nghĩa với những người đã tạo ra thành quả cho mình hưởng thụ.Học tập câu tục ngữ này,cụ thể là phải biết ơn,bảo vệ và sử dụng có hiệu quả những gì mà người khác tạo dựng.Là một người con trước hết ta phải biết khắc ghi công ơn sinh thành,dưỡng dục của cha mẹ,còn là một người học sinh, biết ơn công ơn dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự giúp dỡ của tập thể lớp,trường.Sống trong cuộc đời,ta phải biết khắc ghi công ơn những ai đã cưu mang,giúp đỡ mình khi gặp hoạn nạn khó khăn.Suy rộng ra là con cháu vua Hùng,thuộc dòng dõi Lạc Hồng,ta phải biết tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc.Thừa hưởng cuộc sống tự do,thanh bình phải biết khắc ghi công ơn cua các anh hùng liệt sĩ,khi “bưng bát cơm đầy”,ta phải cảm hiểu”muôn phần đắng cay” của những người nông dân…Không chỉ biết ơn đối với những lớp người đi trước,ta còn phải ý thức quý trọng giữ gìn những giá trị mà quá khứ đã tạo nên bằng mồ hôi,nước mắt và xương máu,tiếp tục phát triển các thành quả của quá khứ.Nói như Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước,bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.Trong tưong lai,hãy đem tài năng của mình ra xây dựng quê hương,hàn gắn vết thương chiến tranh đó chính là cách “trả ơn” quý báo nhất.

Đồng thời còn phải biết đấu tranh chống lại những biểu hiện vô ơn “ ăn cháo đá bát”,có thế xã hội sẽ tốt đẹp hơn.Mỗi con người sẽ sống chan hòa với nhau bằng những tình cảm chân thành hơn.

Qua việc sử dụng câu tục ngữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị,hình ảnh cụ thể mà ý nghĩa thật vô cùng sâu sắc,người xưa đã khuyên nhủ thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn những ai đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống để từ đó khéo léo nhắc nhở,cảnh tỉnh những kẻ còn có lối sống bất nghĩa vô ơn. Mặc dù trải qua bao thâm trầm của thời đại,ý nghĩa câu tục ngữ trên vẫn sống mãi với thời gian…Đọc lại lời dạy của tổ tiên,ta không khỏi tự nhủ với lòng mình:Không bao giờ trở thành kẻ sống thiếu trách nhiệm đối với xã hội,sống và làm việc xứng đáng với đạo lí và truyền thống dân tộc,sống chân thành trọn nghĩa trọn tình,có trứơc có sau.

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Chiều tối là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng- cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người.
Phân tích bài “ Chiều tối “ - Hồ Chí Minh
Phân tích bài thơ "Mộ" (Chiều tối) của Hồ Chí Minh
Phân tích bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh
Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơ đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên


chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)


Như vậy, Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh, thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)


“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)


hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà - Bà Huyện Thanh Quan)


Còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

“Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.

Sưu tầm!

Thứ Năm, 6 tháng 9, 2012

Bức thư cực hay về ngày khai trường

Thưa cô giáo, chiều nay trên đường đưa con đi học, tôi vô tình nhặt thấy trên vỉa hè … bản kiểm điểm của một học sinh lớp 4. Bản kiểm điểm viết: “Hôm nay, trong giờ khai giảng em không nghiêm túc. Em nghịch bóng bay, không đứng thẳng…Em hứa sẽ không bao giờ như thế nữa. Mong cô tha lỗi cho em…”. Phần xác nhận có chữ ký của phụ huynh ghi: “ Chúng tôi sẽ nhắc nhở, uốn nắn để cháu nghiêm túc hơn. Xin cảm ơn cô giáo”.
Nét bút trẻ thơ khá sạch đẹp, vài chỗ không hiểu vì lý do gì bị nhòe mờ? Rất có thể trò đã khóc trong khi viết? Không hiểu cảm giác cô giáo khi đọc bản kiểm điểm của học trò thế nào? Có thể cô đã quên, đã vứt nó vào một xó xỉnh nào đó. Nhưng với tôi, vô tình đó lại là những dòng chữ rất ám ảnh. Tôi chẳng hề muốn chuyện bé xé ra to. Điều đáng nói là dường như đứa bé không có lỗi. Không ai đứng ra bảo vệ hay bênh vực một đứa trẻ mới lên 9 tuổi. Không nền tảng đạo đức nào là chỗ dựa cho tâm hồn trẻ thơ. Người đáng phải viết kiểm điểm, phải chịu án phạt chính là chúng ta- những người lớn, là nhà trường khốn khó và xã hội đang khốn cùng này?

Thưa cô giáo, nhà trường cho trẻ mang bóng bay đến để làm màu cho lễ hội tại sao không cho chúng chơi? Có quy định, quy chuẩn nào của nhà trường và pháp luật về việc đứng thẳng hay không thẳng? Đứng như thế nào là đúng cách và được phép. Theo văn bản của đứa bé thì “Nghịch bóng bay và không đứng thẳng” đã trở thành “lỗi”?
Điều gì ép đứa trẻ phải cam kết một điều rất khó thành hiện thực: “Không bao giờ như thế nữa”? Nhà trường vô tình hay cố ý xúi bẩy bọn trẻ tư duy, cảm xúc và sống không trung thực? Sau hành vi này của trò, có nhất thiết phải lôi kéo bố mẹ chúng vào để sự việc trở nên căng thẳng một cách không cần thiết? Nếu là phụ huynh đứa trẻ, cô giáo có cảm thấy mình bị làm phiền?
Có thể đặt vấn đề: Thầy cô “làm căng” để phụ huynh phải thường xuyên: cảm ơn, biết ơn, chịu ơn và cả … tạ ơn? Có bao giờ cô giáo tự hỏi: Hàng chục năm qua, ngay cả khi còn ngồi trên ghế nhà trường, bản thân cô giáo có nhận thấy tất cả các chương trình khai giảng đều không thực sự vì trẻ hay hấp dẫn con trẻ? Câu hỏi cuối cùng là: hình phạt của cô, bản kiểm điểm khổ ải, không trung thực của trò và thái độ nghiến răng giả vờ nghiêm túc của phụ huynh sẽ mang đến điều gì có lợi cho gia đình, nhà trường và cả xã hội?

Thưa cô giáo, viết đến đây tôi cứ tưởng tưởng ra gương mặt cậu bé. Chắc hẳn khi chịu trận, thần thái cậu bé chẳng thể “rạng ngời” như rất nhiều gương mặt học sinh, thầy cô hay quan chức được lên các kênh truyền hình trong ngày khai giảng sớm 4-9 hay tối nay. Tôi cố hình dung tâm trạng của bố mẹ đứa trẻ khi ký vào bản kiểm điểm này. Họ có quyền lo lắng về môi trường giáo dục quá khắc kỷ, cứng nhắc và rất thiếu tình thương yêu con trẻ? Những hình phạt này có làm cho họ bị tổn thương? Họ sẽ liên hệ gì tới việc thầy giáo đánh học trò dã man ở TP Thái Nguyên, cô bảo mẫu tra tấn trẻ nhỏ một cách khốn nạn ở Đồng Nai hay cô giáo chửi rủa, lăng mạ học sinh ở Hải Phòng?...

Thưa cô giáo, nhiều năm qua, ngành Giáo dục đã sử dụng tối đa công suất từ Không, NÓI KHÔNG. Nào là: Không xúc phạm nhân phẩm học sinh; Không được đánh học sinh dưới mọi hình thức; Không cho học sinh đứng suốt tiết hoặc trước cửa; Không được đuổi học sinh ra khỏi lớp; Không được cho học sinh chép phạt; Không được làm cho học sinh khủng hoảng tinh thần. . .
Rất nhiều giáo sư, tiến sỹ, nhà khoa học, nhà giáo đã trình bày rổn rảng các phương pháp luận Đông- Tây chung quanh đề tài này. Các quan chức thì không ngừng đấm tay lên trời để khẳng định quyết tâm thay đổi chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường. Nhưng như cô giáo biết, cho đến nay chúng ta vẫn chỉ sở hữu một nền giáo dục thiếu triết lý. Cái mà chúng ta đang có chỉ là một cỗ máy giáo điều khổng lồ nhằm đúc ra những lô sản phẩm NGƯỜI bị nhồi sọ, ngoan ngoãn, biết tuân thủ, chấp hành, quen được dẫn lối, đưa đường…
Anne Frank.
Thưa cô giáo, trong thư riêng, đề cập quá nhiều đến những vấn đề to tát e rằng không lịch lãm cho lắm.
Để kết thúc phần trình bày của mình tôi xin được nhắc về hai cuốn truyện nhỏ: Totto Chan cô bé ngồi bên cửa sổ và cuốn Nhật Ký Anne Frank. Có thể cô chưa đọc hoặc đọc rồi nhưng đã quên. Dù ở Hà Lan hay Nhật Bản, hai câu chuyện cách nay hơn 60 năm vẫn nhắc tôi và rất nhiều thế hệ phụ huynh, học sinh về tình yêu thương vô cùng trân quý của những người thầy trước những học sinh đầy cá tính, rất...cá biệt như Toto Chan hay Anne Frank.

Anne Frank mắc tật rất hay nói chuyện riêng trong lớp. Thay vì kiểm điểm, thầy Keptor liên tiếp giao cho Anne viết bài luận “khẩu liên thanh”, “khẩu liên thanh hết thuốc chữa” hay “Quác quác quác, bà Liến thoắng oang oác”. Một “hình phạt” rất thông minh, hóm hỉnh, sâu sắc. Phần mình, Anne biện minh với thầy rằng Nói là một nhu cầu. Nói nhiều là một đặc tính của phụ nữ. Mẹ mình cũng nói nhiều. Mình sẽ cố hết sức để kiềm chế cá tính nhưng làm sao chữa trị được một tật di truyền? Khi khác để chơi khó lại thầy, Anne viết thơ về ông bố thiên nga, bà mẹ vịt và ba con vịt con. Vịt con bị ông bố đánh suýt chết vì nói nhiều… Thầy Keptor đã không tự ái. Không những thế, Anne được phép nói chuyện trong lớp và không phải làm bài luận.

Thầy Keptor không thể ngờ rằng câu chuyện này được Anne Frank ghi chép lại trong nhật ký. Chẳng bao lâu sau cuốn sách đã làm rung động trái tim của hàng triệu người trên toàn cầu. Và tên tuổi cũng như tấm lòng của người thầy sẽ mãi lưu danh cùng cô bé học trò “vẫn sống ngay cả khi đã chết”.
Thưa cô giáo, câu chuyện của Totto Chan cũng là một bài học thật khó quên.Toto Chan bị đuổi khỏi trường học đầu tiên vì quá nhiều những hành vi, lời nói, ứng xử khác thường, bất thường. Khi thì lật mở ầm ĩ hàng trăm lần cái mặt bàn. Lúc đứng giữa lớp dõi theo hay chuyện trò với những người hát rong. Lần khác lại hồn nhiên tâm sự với chim nhạn…
May thay cho Totto Chan, cô bé đã gặp được ngôi trường Tomoe Gakuen lạ thường và phương pháp giáo dục.. dị thường của thầy Kobayashi. Cô bé có thể thay đổi ước mơ vài lần trong ngày. Thày Kobayashi có thể ngồi nghe trò luyên thuyên suốt bốn giờ. Thày không hề giận trò khi Totto Chan không thích bài hát của mình về trường. Trong lần Totto Chan bới tung nhà vệ sinh để tìm ví bị rơi, thày không la lên: “Trời ơi, cháu đang làm gì đấy?” hay “Chấm dứt đi, nguy hiểm lắm, bẩn quá”, Thày chỉ hỏi “Cháu sẽ hót trả vào bể sau khi tìm được ví chứ?”…Rõ ràng niềm vui mà Tôt-tô-chan có được một phần là do thầy hiệu trưởng đã tôn trọng em, thầy không mắng mà ngược lại còn tin vào em”.
Hơn thế nữa lúc nào thày Kobayashi cũng dịu dàng với Totto Chan: “Em biết không, em thật là một cô bé ngoan”. Totto Chan là hiện thân, nguyên mẫu của tác giả Tetsuko Kuroyanagi. Ngôi trường Tomoe Gakuen chỉ tồn tại trong hai năm. Thày Kobayashi đã mất năm 1963. Nhưng ngôi trường đó, người thày khả kính đó đã thay đổi số phận Tetsuko Kuroyanagi và trực tiếp tạo nên một huyền thoại Totto Chan.
Thưa cô giáo, nếu ngày khai trường năm nay cô quên đi một án phạt lạnh lùng. Nếu như cả năm học mới, cô sẽ luôn hành xử như thầy Keptor, Kobayashi, biết đâu đó trong tương lai không xa chúng ta sẽ có những học trò rạng danh như Totto Chan, Anne Frank…
Đầu năm học mới, xin gửi tới cô giáo và nhà trường lời chào trân trọng!
Theo Sống mới

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Tìm hiểu bài thơ "Tôi yêu em" của Pu-skin



TÔI YÊU EM
A. X. PU-SKIN


1. Pu-skin là đại diện xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông thành công ở các thể loại như truyện ngắn, trường ca và thơ trữ tình. Thể loại nào của Pu-skin cũng đậm chất trữ tình và đề cao khát vọng tự do của con người. Nhưng với Tôi yêu em, Pu-skin luôn được nhắc đến với tư cách là nhà thơ tình vĩ đại. Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới, bài thơ đã gắn với tên tuổi Pu-skin trong lòng bạn đọc. 

2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giãi bày tâm trạng theo mạch cảm xúc. Bài thơ được chia làm hai câu, mỗi câu hai vế, mỗi vế hai dòng thơ :

 Hai dòng thơ đầu : khẳng định tình cảm của nhân vật trữ tình “tôi” đối với em : vẫn còn yêu em.

 Hai dòng tiếp theo : tấm lòng hi sinh cao cả của nhân vật “tôi” dành cho người. Một biểu hiện cao thượng của tình yêu. Đây là phần lí trí.

 Hai dòng tiếp theo : cảm xúc và tâm trạng thật của nhân vật trữ tình. Đó là những trạng thái, cung bậc tình cảm rất chân thực của người đang yêu. Chứng tỏ tình yêu vẫn đang rất mãnh liệt và chân thành.

 Hai dòng cuối cùng : vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Dù là mối tình đơn phương nhưng tình yêu của nhân vật “tôi” là một tình yêu đẹp thể hiện một tâm hồn cao thượng. Vẻ đẹp của toàn bộ cảm xúc thơ toả sáng ở dòng thơ cuối cùng. Một lời tỏ tình, một cách thổ lộ tình yêu đẹp nhất và tinh tế nhất.

3.Đọc hiểu

“Mỗi chúng ta có một Pu-skin của mình, và chỉ có một Pu-skin với tất cả mà thôi. Ông đã đi vào cuộc sống chúng ta với ngay từ đầu của nó và mãi mãi không từ bỏ chúng ta” (Alếch-xan-đrơ Tra-đốp-xki). Nhận định này không chỉ khẳng định sức sống và khả năng tác động mạnh mẽ của thơ ca Pu-skin đối với đông đảo độc giả mà còn nói đến sự phong phú đa dạng trong sáng tác của ông. Ở Pu-skin, chúng ta có thể gặp một thanh niên quý tộc với tư tưởng chán chường, muốn xa lánh xã hội thượng lưu giả dối để đến với cuộc sống thanh bình, tự do chốn thôn quê. Cũng có thể gặp một chiến sĩ cách mạng với khát vọng tự do, hoặc một nhà cải cách xã hội có tư tưởng tiến bộ, và còn có cả một nhà văn hiện thực trong một nhà thơ tình lãng mạn. Quá trình sáng tác của Pu-skin là một quá trình vận động tư tưởng theo chiều tiến bộ, từ một thanh niên quý tộc có tư tưởng tiến bộ nhưng còn xa rời nhân dân đến một chiến sĩ cách mạng ưu tú luôn vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nhưng cao hơn tất cả chúng ta gặp một nhân cách Pu-skin – một Con người đích thực ở mọi phương diện sống. Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc với rất nhiều điều kiện thuận lợi cho một cuộc sống vinh hoa nhưng là một Con người, nhà thơ đã không chấp nhận, đã nguyện làm một “ca sĩ của tự do”, trở thành kẻ thù của bọn cầm quyền. Ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho khát vọng về một xã hội tốt đẹp, tự do và bình đẳng. Sáng tác của Puskin là lí tưởng cao cả về những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống, trong đó có tình yêu – tình cảm tuyệt vời nhất của cuộc đời. 

Tình yêu là một đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Không có nhà thơ nào lại không nói đến tình yêu trong thi phẩm của mình. Mọi cung bậc tình cảm, mọi biến thái của tinh vi và những rung động tinh tế của tâm hồn con người đều xuất hiện trong thơ ca. Tình yêu là một thứ tình cảm rất phức tạp, có khả năng đưa con người trở thành thiên thần nhưng cũng có thể biến con người trở thành quỷ dữ. Và điều mà thơ ca hướng đến là lí tưởng về những tình yêu đẹp, tình yêu thánh thiện. Pu-skin là một nhà thơ tình yêu như thế. Thơ tình của ông là sự kết hợp của tình yêu nhân loại và tình yêu con người. Ông sáng tác cả thơ trữ tình và văn xuôi, và đều thành công. Ở mảng thơ trữ tình, nhà thơ quan tâm đến hai đề tài lớn : đề cao khát vọng tự do và khám phá đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động (thể hiện ở mảng thơ về tình yêu). 

Những trải nghiệm của chính bản thân và sự nhạy cảm của một tâm hồn nhân hậu đã giúp nhà thơ phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của tình yêu chân chính. Nhà thơ đã phát hiện và xử lí các tình huống của tình yêu theo chuẩn mực đạo đức của nhân dân lao động. Những tình cảm cao đẹp mà nhà thơ ca ngợi đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhơ nhớp bẩn thỉu của xã hội thượng lưu, cái xã hội mà tình yêu chỉ là sự chiếm đoạt, ích kỉ. 

Trong các trường ca như Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin, Đoàn người Tsư-gan, Người tù Cáp-ca-dơ, nhân vật chính của Pu-skin đều là những thanh niên quý tộc chán ghét tình yêu chốn thượng lưu đi tìm tình yêu ở nơi khác, nhưng rồi bản tính ích kỉ trong tình yêu của những thanh niên quý tộc mà họ không bỏ được vẫn đưa họ đến những bi kịch. Tình yêu với họ đã từng chỉ là những trò chơi, những cuộc chinh phục, sự ghen tuông có thể dẫn đến những cuộc đấu súng một mất một còn (E. Ô-nhê-ghin và Len-xki trong Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin), họ sẵn sàng giết chết người yêu khi cảm thấy bị phản bội (A-lê-cô trong trường ca Đoàn người Tsư-gan), có lẽ tấn bi kịch cuối đời của Pu-skin cũng xuất phát từ chính những thành kiến kiểu quý tộc ấy mà Pu-skin đã không thể tự vượt qua. Những mối tình thượng lưu kiểu ấy đã khiến nhà thơ suy ngẫm về một tình yêu đích thực. Cảm hứng về một tình yêu cao thượng đã được gửi gắm trong hình tượng nhân vật trữ tình của bài thơ Tôi yêu em. Dưới hình thức một lời tỏ tình là khát vọng về một tình yêu chân chính với tình cảm cao thượng. Bài thơ là sự kết hợp tuyệt vời của một lí trí sáng suốt và một trái tim biết yêu thương thực sự. Mạch cảm xúc của bài thơ tự nó đã chia thành hai phần dưới hình thức hai câu, mỗi câu bốn dòng thơ. Và trong mỗi câu thơ lại có hai vế. Một kết cấu hài hoà cân đối đã làm nên vẻ đẹp của bài thơ nhưng không làm suy giảm sự tinh tế của cảm xúc. Thơ Pu-skin vốn rất giản dị, gần gũi cuộc sống. Những hình ảnh biểu tượng trong thơ ông thường dễ hiểu nhưng rất có chiều sâu. Hiểu ở mức độ nào phụ thuộc vào sự đồng cảm và rung động của trái tim người đọc. Thế nhưng điều mà bất cứ độc giả nào cũng cảm nhận được chính là những giá trị đạo đức trong thơ Pu-skin. Những vần thơ trong sáng và đầy cảm hứng nhân văn của ông có khả năng tác động rất mạnh mẽ đến tâm hồn người đọc. Và tình cảm cao đẹp của nhân vật trữ tình trong Tôi yêu em có thể tạo nên khả năng thanh lọc tâm hồn đối với nhiều thế hệ bạn đọc.

Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình “tôi” được bắt đầu bằng một lời thổ lộ rất chân thành :

Tôi yêu em : đến nay chừng có thể 
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;

Có thể nhận ra một sự không bình thường trong lời bày tỏ của nhân vật trữ tình. Đó không phải là một lời tỏ tình ở một giai đoạn bắt đầu một mối tình. Có vẻ như là một sự xác nhận về một tình cảm đơn phương từ phía “tôi”. Một tình cảm như đã từng bị cố làm cho lụi tàn nhưng nó lại “chưa hẳn đã tàn phai”. Hai dòng thơ, đơn giản là một lời xác nhận sự tồn tại của một tình yêu. Một tình yêu mà dù muốn cũng không thể nguôi quên. Nhưng điều đáng nói là mục đích của lời bày tỏ ấy. Mong muốn được đáp lại tình cảm hay thể hiện một điều gì khác :

Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

Một mong muốn cao thượng chỉ có thể xuất phát từ một tình cảm chân thành của một trái tim biết yêu thương, biết hi sinh. Câu thơ đã xác nhận một chân lí của tình yêu là đã yêu thì không đòi hỏi, yêu là mong muốn những điều tốt lành đến với người mình yêu thương : “Tôi chẳng muốn em buồn vì bất cứ lẽ gì”.

Quả thực tình yêu đã nâng con người lên cao hơn. Mặc dù nhân vật “em” không xuất hiện trong bài thơ nhưng qua cảm nhận của nhân vật trữ tình thì đó phải là một người con gái rất đáng yêu. Chấp nhận âm thầm chịu đựng tình yêu đơn phương, nhân vật trữ tình đã nâng mình lên cao hơn.
Câu thơ đầu có sự tham gia rất mạnh mẽ của lí trí. Đây là giai đoạn mà lí trí vẫn điều khiển được trái tim. Ý thơ thẳng thắn, minh bạch và rất rõ ràng : còn yêu và rất yêu nhưng không muốn làm em phải suy nghĩ. Câu thơ như lời tự nhủ với chính mình với một quyết tâm rất cao. Nhưng nếu chấp nhận dễ dàng như vậy thì có vẻ lí trí quá và tình yêu của “tôi” đối với em chưa đủ sức thuyết phục, còn kém mãnh liệt. Sự mãnh liệt của tình yêu được thể hiện ở bốn dòng thơ tiếp theo : 

Tôi yêu em âm thầm, không hi vọng,
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em. 

Dường như lí trí đã nhường chỗ cho cảm xúc. Những trạng thái cảm xúc phức tạp và đầy mâu thuẫn của trái tim đang yêu đã được bày tỏ rất chân thành. Sự tăng tiến của tình cảm, cảm xúc khiến câu thơ có khả năng truyền tải tình cảm mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Sức nặng của tâm trạng và trung tâm thẩm mĩ của bài thơ nằm ở câu thơ thứ hai này :

Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen, 

Một lần nữa, mối tình đơn phương lại được xác nhận. Vì không muốn em phải bận lòng thêm nữa nên phải “âm thầm”. Yêu không hi vọng, yêu đơn phương vẫn là tình yêu, thậm chí còn là một tình yêu rất sâu sắc. Có rụt rè có ghen tuông thì đích thị là tình yêu. Nhưng sự hờn ghen và không hi vọng ấy không làm giảm đi vẻ đẹp của tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho “em". Đó là một lời bày tỏ chân thành. Nhịp thơ dồn dập, liên tiếp xuất hiện các tính từ chỉ trạng thái cảm xúc, đã bộc lộ mức độ mãnh liệt của tình yêu. Trong bài thơ có tới ba cụm từ tôi yêu em thì hai cụm tập trung ở câu thứ hai và được gắn với những tính từ cảm xúc (âm thầm, không hi vọng, chân thành, đằm thắm). 

Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm, 

“Chân thành”, “đằm thắm” là hai phẩm chất mà mọi tình yêu đều muốn đạt tới, đó là tiêu chuẩn lí tưởng của mọi mối tình. Nếu thiếu hai “tiêu chuẩn” thì không còn là tình yêu nữa. Và mức độ chân thành, đằm thắm được xác nhận và cụ thể hoá một cách khéo léo và đầy thuyết phục ở dòng thơ cuối cùng :

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Tư tưởng và giá trị của bài thơ được cô đọng ở câu thơ này. Chỉ một lời cầu chúc thôi nhưng nói được bao điều. Nó khẳng định tấm tình chân thành của “tôi”, đồng thời thể hiện “tôi yêu em” là tình yêu mãnh liệt và chân chính. Câu thơ hội tụ vẻ đẹp của cảm xúc và cảm hứng của nhân vật trữ tình.

Nhìn lại mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ thì đây là bài thơ về một mối tình đơn phương nhưng qua đó lại thể hiện một quan niệm rất nhân văn về tình yêu. Và mạch cảm xúc của bài thơ được phát triển theo lôgíc tâm trạng nhưng có sự kết hợp rất khéo với lí trí. Sự hài hoà giữa cảm xúc và lí trí đã tạo nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn cho bài thơ. Tâm trạng được thể hiện không quá bản năng nhưng cũng không quá nặng nề khô cứng. Cảm xúc có khi mâu thuẫn với lí trí nhưng lại được giải quyết một cách rất hợp lí, hợp với sự phát triển của mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Một tình yêu chân thành của một trái tim biết yêu thương thực sự đã thể hiện một tư tưởng nhân văn cao đẹp. Một vấn đề thuộc về đạo đức và nhân cách con người đã được nhà thơ thể hiện dưới một hình thức giản dị và giàu khả năng gợi cảm. Đây cũng chính là một trong những thành công nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Pu-skin.

Cầu em được người tình như tôi đã yêu em.

Lời cầu chúc giản dị mà thể hiện được cả một nhân cách. Đó là lời cầu chúc tuyệt vời nhất của nhân loại. Thói thường tình yêu thường kèm theo sự ích kỉ, ai đã yêu mà không từng “hậm hực lòng ghen”. Nhân vật “tôi” cũng như vậy. Nhưng sự ích kỉ không thể chiến thắng được sự cao thượng của một trái tim biết yêu thương. Nếu chỉ là lời cầu mong cho người mình yêu những điều tốt đẹp nhất thì đơn giản quá và không có khả năng thể hiện tình yêu như “cầu em được người tình như tôi đã yêu em”. Bài thơ là lời bày tỏ tình cảm, vì vậy cái ẩn ý đằng sau câu thơ, làm cho cảm xúc thơ chân thực hơn chính là ở lời cầu mong này. Lời cầu chúc cũng chính là lời khẳng định tình yêu chân thành và đằm thắm của mình, đó là tình yêu thực sự, tình yêu xứng đáng nhất với em. Đây không chỉ là một lời cầu chúc tuyệt vời nhất, thể hiện hay nhất tình cảm của “tôi” mà còn là một lời thổ lộ thật thông minh. Chấp nhận yêu đơn phương, chấp nhận sự thực là em sẽ có người khác nhưng lại nhấn mạnh và xác nhận tình yêu mãnh liệt của mình, liệu có mâu thuẫn không ? Liệu có cô gái nào yên lòng trước lời cầu chúc chân thành và đáng yêu như thế. Quả thực bài thơ thật đẹp, thật trong sáng. Với một tình yêu như thế dù được đáp lại hay không thì vẫn là một tình yêu lí tưởng, những trái tim yêu như thế sẽ giúp con người ngày càng người hơn.

Thơ trữ tình Pu-skin là kết quả của một tâm hồn được nuôi dưỡng bởi bầu sữa của văn hoá dân gian Nga nên luôn trong sáng, ngọt ngào và giàu giá trị nhân văn. Tôi yêu em là kết tinh xuất sắc nhất. Pu-skin cũng từng viết về những tình yêu không được đáp lại như thế nhưng với một trạng thái cảm xúc khác. Tình cảm cũng rất chân thành, mãnh liệt nhưng trái tim không được đáp lại thì không cao thượng, không sẵn sàng hi sinh như thế mà cay đắng và khắc nghiệt hơn : 

Giữa vườn xuân và bóng đêm tĩnh mịch 
Chim hoạ mi thánh thót bên nhành hồng
Nhưng đoá hồng kia chẳng chút động lòng 
Mà lặng lẽ đong đưa rồi thiếp giấc
Bản tình ca vẫn du dương và réo rắt. 

Tình cảm của chim hoạ mi  nhân vật trữ tình  cũng mãnh liệt và da diết, thậm chí rất kiên nhẫn mặc dù thái độ của “nhành hồng” rất lạnh lùng, lạnh lùng đến vô tâm. Có lẽ vì thế mà sự kiên nhẫn không được đáp lại ấy đã biến thành một tâm sự cay đắng, lời yêu ngọt ngào trở thành một lời chì chiết :

Vì sắc đẹp lạnh lùng người hót làm chi ?
Hỡi thi nhân hãy mau tỉnh dậy đi
Uổng công thôi người nhìn thấy đấy
Nó mơn mởn sắc hương lộng lẫy
Nhưng chẳng có gì xúc động cảm rung
Nó làm ngơ chẳng đáp lại tiếng lòng.
(Pu-skin, Con chim hoạ mi và nhành hồng)

Tất nhiên đây không đơn giản là một bài thơ thuần tuý nói chuyện tình yêu, mà còn là tâm sự của nhà thơ về cuộc đời. Dù sao trước hết nó vẫn là một bài thơ tình với hai hình ảnh thơ rất lộng lẫy “con chim hoạ mi” và “nhành hồng”. Hai nhân vật trữ tình ở hai bài thơ đều có chung một điều là đều yêu đơn phương nhưng lại có hai thái độ ứng xử hoàn toàn khác nhau. Một đòi hỏi được đáp lại ; một cao thượng và giàu đức hi sinh. Tôi yêu em là một định nghĩa chuẩn mực về tình yêu. Dù đơn phương hay song phương thì tình yêu cũng cần đức hi sinh và sự cao thượng. Sự ích kỉ sẽ biến lòng ghen tuông thành thứ thuốc độc giết chết mọi tình yêu. Trong trường ca Đoàn người Tsư-gan, mối tình giữa A-lê-cô và cô gái Tsư-gan là một mối tình ích kỉ. A-lê-cô từ chối và chạy trốn khỏi cuộc sống vương giả của xã hội thượng lưu, nơi mà theo chàng là : 

Cảnh giam hãm phố phường ngột ngạt
Một đống người nhung nhúc giữa đường
(Puskin, Đoàn người Tsư-gan)

để đến với cuộc sống tự do giữa thảo nguyên. Nơi đó chàng đã có một mối tình đẹp và đã từng “Chỉ mơ ước được yêu em mãi mãi”. Nhưng đến khi cô gái Tsư-gan quen với cuộc sống tự do đi tìm tình yêu khác cho mình, lòng ghen tuông đã biến chàng thành thú dữ :

Con không thể : con không chịu mất
Để cho người mà không giành giật
Ít ra con hưởng khoái trả thù.

Và chàng đã nhẫn tâm giết chết hai người trẻ tuổi. Có thể thấy tình yêu của A-lê-cô điển hình cho kiểu tình yêu ích kỉ của lớp thanh niên thượng lưu. Đoàn người Tsư-gan quen sống tự do và cao thượng không thể chấp nhận anh, như lời lão trượng nói khi đuổi A-lê-cô khỏi đoàn : 

Chúng ta sống man di không luật lệ
Chẳng nhục hình chẳng giết hại một ai 
Chẳng đòi người có tội phải đền bồi 
Chẳng đòi máu, chẳng đòi rên xiết.

Đó là phẩm chất của nhân dân. Họ yêu cuộc sống tự do và luôn cư xử rất cao thượng. Vì thế họ mới “sinh ra” thiên tài Pu-skin, họ mới có được tình cảm đẹp như Tôi yêu em. Họ chất phác và hồn hậu trong mọi mối quan hệ, vì thế những kẻ còn mang thói ích kỉ của quý tộc, tư sản không hợp với cuộc sống tự do của họ. A-lê-cô chán ghét xã hội thượng lưu nhưng chỉ biết đi tìm tự do cho riêng mình thì “Sinh ra không phải cho cuộc sống ngàn hoa nội cỏ”. Dù sáng tác ở thể tài nào, sáng tác của Pu-skin luôn thể hiện một tình cảm trong sáng và rất nhân văn. Thơ văn của ông vẫn luôn hướng đến những tình cảm đẹp đẽ và nhân đạo nhất.

Với thủ pháp nghệ thuật tạo sự tương phản giữa các vế của câu thơ, giữa hai câu thơ và ngôn ngữ thơ giản dị, giàu cảm xúc, Pu-skin đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về tình yêu. Đó là một tình yêu con người nhất. Đã có rất nhiều thi nhân viết về tình yêu và họ đều viết rất hay nhưng có lẽ Tôi yêu em là bài thơ giản dị, đời thường và chứa đựng nhiều nhất giá trị nhân văn. Với một trái tim biết yêu thương và một khả năng sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, Pu-skin xứng đáng là "niềm tự hào không phải chỉ của văn học Nga mà của toàn bộ nền văn học thế giới”. Thơ tình của Pu-skin không chỉ chiếm được cảm tình của bạn đọc trẻ tuổi mà còn có sức tác động rất mạnh đến tâm hồn bạn đọc. Và một điều chắc chắn rằng Tôi yêu em là lí tưởng về một tình yêu đích thực, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến những nhà thơ tình xuất hiện sau ông. Một trong những luồng ánh sáng phát ra từ “mặt trời thi ca Nga” chính là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo của một trái tim luôn yêu thương tất cả bằng một tình yêu cao thượng, kết quả và kết tinh của văn hoá Nga.

(Nguồn: Đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB GD, 2007)

Phân tích Người trong bao - Sê-khốp

ITác giả Sê-khốp qua truyện ngắn Người trong bao đã phơi bày lối sống hèn nhát, co cụm, thủ tiêu đấu tranh, tự hạ thấp nhân phẩm và nhân cách con người của một bộ phận trí thức Nga cuối TK XIX, sự trì trệ, thụ động, lối sống co mình được thể hiện qua các nhân vật mà ông miêu tả trong truyện ngắn này là sản phẩm gắn liền với thời kì lịch sử đó. Lối sống đó đã làm hạ thấp giá trị nhân phẩm của con người, biến con người thành một nô lệ tự nguyện, chỉ răm rắp phục tùng mà không hề biết phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra một cơ chế sống giả tạo, máy móc, rập khuôn. Nhà văn cho rằng “không thể sống như thế mãi được”. Ông phủ nhận xã hội đương thời và nhiệt tình cổ vũ cho một xã hội mới tốt đẹp hơn. Ông chứng minh một cách thuyết phục về những cái xấu xa đang tồn tại để chỉ cho mọi người thấy trách nhiệm của họ là phải thanh toán những cái xấu xa, lạc hậu ấy.
Truyện ngắn của Sê-khốp có dáng vẻ độc đáo riêng. Đó là hình thức nhỏ, nhưng mang nội dung lớn, không rườm lời nhưng ý thì lại sâu sắc, có sức gợi lớn, nhằm tạo ra khả năng liên tưởng giữa độc giả và văn bản, giữa tác giả và độc giả. Truyện ngắn Người trong bao được sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp đi dưỡng bênh tại thành phố I-an-ta trên bán đảo Crưm thuộc biển Hắc Hải. Trước hết, câu chuyện được kể trong truyện ngắn Người trong bao về nhân vật kì cục Bê-li-cốp là do nhân vật Bu-rơ-kin, một GV và là đồng nghiệp của Bê-li-cốp, kể lại cho bạn anh ta, bác sĩ thú y I-van I-va-nứt.
Trong đoạn trích, nhân vật chủ yếu được tái hiện từ góc nhìn của người kể chuyện, của tác giả và người nghe kể chuyện là Bê-li-cốp. Qua cuộc trò chuyện giữa hai trí thức - một thầy giáo trường làng Bu-rơ-kin và bạn ông ta, bác sĩ thú y I-van I-va-nứt – nhân vật Người trong bao hiện ra. Đó là thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp cổ Bê-li-cốp, tác giả dường như chỉ là người ghi chép lại một cách tình cờ câu chuyện nghe được. Song đây là cách kể khách quan.
Bê-li-cốp xuất hiện qua lời kể như là một điển hình cho loại người trong bao, loại người luôn tự tìm cho mình một cách thức bao gói để tự co mình lại vì sợ cuộc sống đang diến ra ồn ã xung quanh. Y sợ và “ghê tởm” hiện tại cho nên hướng về quá khứ, “luôn ngợi ca những gì không có thật”. Nghề nghiệp của y là dạy tiếng Hi Lạp cổ, thứ tiếng này cũng là một hình thức bao gói, giúp anh ta ẩn sâu hơn vào quá khứ mà trách đi cái hiện thực đang diễn ra. Chạy trốn hiện tại cũng có nghĩa là từ chối tương lai, từ chối cái sẽ đến hoặc sẽ phải đến. Tìm về quá khứ, kể cả quá khứ không có thật, chính là sự vô trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời. Chui vào bao, tự tìm cho mình những cái bao để che chở đã trở thành lối sống của Bê-li-cốp, trở thành “thói quen kì cục” của nhân vật này. Lối sống đó trở thành nỗi ám ảnh triền miên đối với mọi người, vì chẳng ai biết là y muốn gì, cần gì và lại càng không biết phải nói với y thế nào. Y đã khống chế cả trường học, cả thành phố “suốt mười lăm năm trời”. 
Trong việc khắc hoạ nhân vật, Sê-khốp thường sử dụng nhiều chi tiết tưởng chừng “vặt vãnh”, “nhỏ nhoi”, “tầm thường” như giày, ô, mũ, bông nhét tai,... Và đặc biệt là hình ảnh “cái bao” .
Có thể phân tích hình ảnh cái bao qua ba cấp độ :
Hình ảnh “cái bao” qua các vận dụng hàng ngày của Bê-li-cốp.
Hình ảnh “cái bao” qua công việc hàng ngày.
Hình ảnh “cái bao” thường trực trong tư tưởng.
Cách kể của tác giả qua đoạn trích tỉ mỉ, chậm rãi thể hiện qua giọng văn mỉa mai, giễu cợt, vừa hài hước vừa ngậm ngùi, chua xót đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật lớn, tác động thức tỉnh độc giả mọi thời đại.
II. Để hiểu rõ ý nghĩa người trong bao, đầu tiên ta cần tìm hiểu ý nghĩa của cái bao: 
1. Xét về nghĩa đen: Vật dùng để bao gói bảo vệ đồ dùng khỏi những tác nhân có hại 
2. Xét về nghĩa bóng: Lối sống tính cách cần phê phán và bài trừ của Bê-li-côp 
Tú đó ta có thể rút ra "ý nghĩa hình tượng người trang bao là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của bộ phận trí thức Nga đương thời, có ý nghĩa phổ quát cao mang tính quy luật".
III. "Người trong bao"- Sêkhốp là một trong những tác phẩm mới được đưa vàp trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Bởi đây là một tác phẩm văn học nước ngoài mới được đưa vào trong chương trình nên chúng ta gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tác phẩm. Trong phạm vi bài viết này, người viết sẽ tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật Bê-li-cốp.
Nhân vật Bê-li-cốp được xây dựng bằng 2 nghệ thuật cơ bản: nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và nghệ thuật xây dựng nhân vật lưỡng diện.
Trước hết là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình. Theo từ điển tiếng Việt thì điển hình được hiểu là kiểu mẫu và có khả năng tập trung nhiều tính chất tiêu biểu. Như vậy, một nhân vật điển hình phải là một nhân vật vừa mang những nét chung, khái quát lạ vừa mang những nét riêng, đặc biệt. Bê-li-cốp là kiểu người trong bao: ô trong bao, dao trong bao, suy nghĩ trong bao, khuôn mặt trong bao...Nét riêng của nhân vật này là tính cách trong bao, lối sống trong bao được đẩy đến đỉnh điểm. Như vậy, Bê-li-cóp là nhân vật có khả năng đại diện cho một kiểu người trong bao, một lối sống Mêsian- lối sống tiểu tư sản tầm thường, dung tục đã và đang tồn tại trong xã hội NGA cuối TK XIX-đầu TK XX.
Thứ hai, Bê-li-cốp là nhân vật lưỡng diện(2 mặt). Ở Bê-li-cốp tồn tại cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực: Bê-li-cốp luôn tuân theo những chỉ thị, thông tư của cấp trên. Như vậy, hắn là một thầy giáo chuẩn mực của nhà trường, một viên chức tận tuỵ với cấp trên và một công dân gương mẫu của nhà nước. Mặt tiêu cực: lối sông trong bao, thu mìnhmột cách thái quá, việc máy móc tuân theo những chỉ thị, thông tư của Bê-li-cốp biến hắn thành một con ốc hèn nhát trong xã hội. KHông chỉ vậy, tính lưỡng diện của nhân vật này còn được thể hiện ở điểm: Bê-li-cốp vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.Bê-li-cóp là tội nhânb vì hắn gieo rắc lối sống ấy vào tất cả mọi người. Mặt khác Bê là nạn nhân, là sản phẩm tất yếu của XH chuyên chế Nga cuôí TK XIX - đầu TK XX.

(nguồn:giangvien)

Tóm tắt vở kịch "Romeo và Juliet"

Ngày xưa, tại một thành phố nóng nực của nước Ý tên là Verona, người dân đã đối xử tồi tệ với nhau và họ còn khuyên nhắc vợ con, bạn bè phải thù ghét lẫn nhau, và các mối thù được truyền đi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng tại thành phố Verona có hai gia đình Montague và Capulet căm thù nhau : các người già cãi nhau om sòm ngoài đường phố, làm mất nhân cách còn các người trẻ đánh nhau nơi công cộng khiến cho có kẻ mất mạng. Sự ngu xuẩn của hai gia đình này làm cho Hoàng Tử của thành phố tức giận, ông ta đã ra một đạo luật ngăn cấm việc gây lộn ngoài đường phố và kẻ phạm pháp sẽ bị xử tử hình. Hai gia đình Montague và Capulet đành phải phục tùng luật lệ nhưng thực ra, mối thù vẫn còn bên trong lòng của họ.

Khi thấy con trai Roméo không dính dáng vào các vụ tranh chấp, Hầu Tước và bà Montague rất vui mừng nhưng họ không hiểu tại sao con trai quý của họ không được vui tươi. Họ hỏi thăm Benvolio, người trong họ và cũng là bạn của Roméo thì sau đó, Benvolio mới khám phá ra rằng Roméo đang yêu. Và người yêu của Roméo là Rosaline, một cô gái rực rỡ, lại chẳng đáp lại mối tình này. Để làm cho Roméo vui lên, Benvolio đề nghị cả hai người nên cải trang, bí mật tham dự buổi dạ hội của gia đình Capulet. Rosaline cũng sẽ tới đó và Benvolio hứa rằng sẽ tìm cho Roméo một cô gái đẹp, xuất sắc hơn Rosaline. Nghe đề nghị này, Roméo linh cảm thấy một sự nguy hiểm nhưng rồi cũng đồng ý ra đi, cùng với Benvolio và Mercutio, một người bạn khôn khéo.

Tối hôm đó, gia đình Capulet tổ chức dạ hội lớn vì Bá Tước Paris sẽ tới hỏi Hầu Tước Capulet xem có thể xin kết hôn với Juliet, cô con gái duy nhất hay không. Bá Tước Paris là một người có họ hàng với Hoàng Tử Escalus và là nhân vật độc thân sáng giá nhất của Thành Verona. Gia đình Capulet nói rằng Juliet mới 13 tuổi, chưa từng biết yêu và còn quá nhỏ, chưa tới tuổi lấy chồng. Dù sao, Hầu Tước Capulet cũng xúc động và bảo con gái phải làm vui lòng Bá Tước Paris khi gặp nhau lúc khiêu vũ.

Vào đêm dạ hội đó, Juliet đã gặp Roméo. Paris và Rosaline đều bị bỏ quên. Hai người trẻ kể trên đã nhìn thấy nhau, gặp mặt nhau và khi ôm nhau hôn, họ đã yêu nhau sau đắm. Nhưng một người bà con của Juliet tên là Tybalt đã nhận ra Roméo. Tybalt là người nóng tính, cho rằng một người thuộc gia đình Montague đến dự dạ hội mà không được mời, và đây là một điều xỉ nhục, anh ta thề sẽ trả thù. Sau khi buổi dạ hội chấm dứt, Roméo và Juliet cùng tìm hiểu về người yêu mới. Khi Roméo tránh xa các bạn bè ồn ào và ẩn mình dưới một tàng cây thì không ngờ, địa điểm này lại ở ngay dưới cửa sổ căn phòng của Juliet. Rồi trên ban công thơ mộng, hai kẻ yêu nhau đã thề thốt với nhau và quyết định kết hôn trong vòng bí mật.

Cha Lawrence, một tu sĩ giòng Franciscan và là cha sưng tội của Roméo, rất bận tâm về sự say mê đột ngột của hai người trẻ nhưng cuối cùng đồng ý sẽ làm lễ cưới cho đôi trẻ với niềm hy vọng rằng cuộc hôn nhân của chúng sẽ chấm dứt mối hận thù lâu đời giữa hai gia đình. Thế nhưng, thế giới tình yêu bí mật của Roméo và Juliet lại sớm bị tổn thương nặng nề. Tybalt đang tìm cách trả thù và đã gặp Roméo cùng đi với Mercutio và Benvolio. Tybalt đã gọi Roméo là tên đểu giả và thách đấu gươm, nhưng Roméo đã từ chối, gọi Tybalt là "người anh em bà con" và thề rằng đã yêu danh tiếng của gia đình Capulet như thanh danh của gia đình mình. Các bạn của Roméo đều ngạc nhiên về lời khước từ của Roméo và anh chàng nóng tính Mercutio đã nhận sự thách đố. Khi Roméo xông tới ngăn cản cuộc đấu gươm thì Tybalt đã đâm chết Mercutio.

Roméo cảm thấy có tội về biến cố mới xẩy ra, lại giận dữ vì cái chết của người bạn thân, nên đuổi theo Tybalt. Một trận đấu gươm sinh tử đã diễn ra và Roméo đánh thắng. Chỉ sau khi Tybalt đã chết, Roméo mới nhận ra sự liều lĩnh của mình nên tìm cách lẩn trốn.

Juliet lúc này rất phấn khởi vì đám cưới sắp tới, thì được bà vú báo tin xấu : người anh họ Tybalt đã bị giết và Hoàng Tử Escalus đã cấm Roméo không được lai vãng trong thành Verona. Bà vú cũng cho Juliet biết hiện nay Roméo đang trốn trong phòng của Cha Lawrence. Juliet lại vui mừng vì sẽ được xếp đặt một buổi tối thương yêu với Roméo trước khi chàng này trốn đi khỏi Verona.

Thế rồi sự việc lại đi từ xấu đến xấu hơn. Hầu Tước Capulet rất đau buồn vì cái chết của Tybalt và cho rằng ông sẽ làm cho mọi người trong gia đình vui lên khi sắp đặt đám cưới của Juliet lấy Bá Tước Paris. Juliet lại đau khổ! Sự từ chối cuộc hôn nhân này sẽ làm cho cha mẹ cô đau khổ và ngay cả bà vú nuôi cũng khuyên cô nên lập gia đình với Bá Tước Paris. Không biết trông cậy vào ai, Juliet đành chạy đến nhờ vả Cha Lawrence.

Cha Lawrence chỉ còn một niềm hy vọng, nhưng đây lại là một chương trình mạo hiểm. Cha cho Juliet một liều thuốc, uống vào sẽ làm cho nàng tắt thở, có vẻ chết trong 42 giờ và trong khoảng thời gian này, Cha Lawrence sẽ cho người đi Mantua tìm kiếm Roméo và rồi Cha và Roméo sẽ tới ngôi nhà mồ, nơi mà Juliet sẽ sống lại. Roméo sẽ mang nàng đi xa và Cha Lawrence sẽ an ủi mọi người, sẽ công bố cuộc hôn nhân của đôi trẻ để họ có thể trở lại vui sống tại Verona. Juliet nhận sẽ uống liều thuốc.

Sáng ngày hôm sau, khi bà vú nuôi tới chuẩn bị cho Juliet mặc thử áo cưới thì thấy nàng đã thành cái xác không hồn. Niềm vui của gia đình Capulet đổi ra nỗi buồn vô hạn bởi vì đám cưới của cô con gái duy nhất, nay trở thành một đám tang.

Trong khi đó, Cha Lawrence gửi một người thông tin đi tìm kiếm Roméo thì người này lại bị phong tỏa giữa đường vì bệnh dịch đồng thời, kẻ hầu Balthasar của Roméo lại báo tin cho Roméo biết rằng Juliet đã chết. Roméo bèn đi tìm mua thuốc độc và cấp tốc tới ngôi nhà mồ của gia đình Capulet. Tới nhà mồ, Roméo thấy Bá Tước Paris đang than khóc cạnh xác Juliet và khi Paris từ chối không để Roméo đi qua, hai người đã đánh nhau và cuối cùng, Roméo đã giết chết Paris. Lời yêu cầu cuối cùng của Bá Tước Paris này là được chôn gần Juliet. Trong nhà mồ, Roméo khấn cầu Tybalt tha thứ nhưng rồi vẻ đẹp của Juliet đã làm cho Roméo thẫn thờ, không muốn sống. Chàng thề nguyền sẽ sống bên người yêu mãi mãi nên đã uống liều thuốc độc và tắt thở.

Khi đến giờ Juliet tỉnh dậy, Cha Lawrence tới nhà mồ thì đã thấy Paris và Roméo nằm chết nên sợ quá, Cha đã bỏ chạy. Tỉnh dậy, Juliet nhìn thấy người yêu đã chết rồi trong khi các người khác đang đi tới phía bên ngoài, nàng phải hành động gấp bằng cách dùng cây dao găm của Roméo và tự sát.

Cái chết bi thương của hai người trẻ tuổi đã đoàn kết lại hai gia đình trong nỗi sầu muộn. Không phải bằng cuộc sống mà bằng cõi chết, hai kẻ thương yêu nhau đã mang lại hòa bình cho các gia đình của chúng.